Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 90 năm qua, Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa dân tộc thoát khỏi sự áp bức, bóc lột, ách nô lệ, trở thành người chủ của đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành 30 năm chiến tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc (30-4-1975). Đảng lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1975) và cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1975. Đặc biệt, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi. Đó là bài học lớn cho cách mạng Việt Nam. Để có được sự lãnh đạo đúng đắn, Đảng phải chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra.
Thứ nhất, Đảng không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ, trung thành và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
V.I.Lênin nêu rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng… Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong, hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”. Hồ Chí Minh từ năm 1927, đã nói rõ vai trò của lý luận (chủ nghĩa): “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Từ những ngày đầu chuẩn bị thành lập Đảng (1925-1927), Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng trang bị lý luận Mác-Lênin và những quan điểm, tư tưởng của Người cho cán bộ. Thực tế, Đảng đã không ngừng nâng cao trình độ lý luận trong Đảng, trước hết là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Nắm vững lý luận không phải là thuộc lòng câu chữ mà là hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của các nguyên lý, lý luận, nắm rõ phương pháp, trong đó có phương pháp biện chứng để hiểu được quy luật khách quan, vận dụng phù hợp vào thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng coi trọng tổng kết thực tiễn để làm rõ những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam; lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lý luận chiến tranh cách mạng và cả lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi quyết định đổi mới (1986), Đảng đã chú trọng đổi mới tư duy lý luận để nhận thức đúng các quy luật, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần khắc phục tư duy nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, cần phải tôn trọng quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng đẩy mạnh nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với tổng kết thực tiễn. Vì vậy, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ về mục tiêu, mô hình của chủ nghĩa xã hội. Sáng tỏ hơn về những vấn đề của chủ nghĩa xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…), sáng tỏ hơn về khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, sáng tỏ hơn những vấn đề mới phát triển trong thời đại hiện nay.
Thứ hai, Đảng đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, không ngừng bổ sung, phát triển, bảo đảm tính hiện thực của đường lối
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, vì vậy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đòi hỏi phải có cương lĩnh, đường lối đúng đắn. Trong lịch sử lãnh đạo cách mạng, Đảng đã có những cương lĩnh: Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930); Luận cương chính trị (10-1930); Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (2-1951); Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và bổ sung, phát triển (2011). Cương lĩnh đề ra những vấn đề chiến lược của cách mạng và chỉ đạo một chặng đường dài, thậm chí xuyên suốt quá trình cách mạng, như Cương lĩnh đầu tiên khi thành lập Đảng (1930). Căn cứ vào Cương lĩnh, ở mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể, Đảng đề ra những đường lối, chính sách chủ trương lớn để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Đường lối giải phóng dân tộc, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối cách mạng miền Nam và chống Mỹ cứu nước, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đường lối đổi mới.
Để bảo đảm tính đúng đắn trong hiện thực của cương lĩnh, đường lối, Đảng không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ, nắm vững quy luật khách quan; luôn luôn xuất phát từ thực tế, coi trọng tổng kết thực tiễn của đất nước; phát huy trí tuệ, sáng kiến của nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhan dân, vì lợi ích của nhân dân; học tập kinh nghiệm của bên ngoài có chọn lọc và phải có tư duy, tầm nhìn chiến lược, nâng cao năng lực dự báo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự chỉ dẫn quan trọng: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.”
Thứ ba, có hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh, đội ngũ cán bộ giỏi, có năng lực tổ chức thực hiện đường lối
Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ cấp Trung ương đến các địa phương, cơ sở. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thường vụ Trung ương đã chỉ đạo các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, các tổ chức đảng các cấp phát triển phong trào cách mạng đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo hệ thống tổ chức đảng các cấp tổ chức thắng lợi các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới.
Đảng hoạt động theo những nguyên tắc được quy định: Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; đoàn kết, thống nhất trong Đảng; gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Trong các nguyên tắc “Đảng lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản”. Nguyên tắc đó đòi hỏi tập trung, thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng. Cá nhân phải phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương. Trên cơ sở thực hành và phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng, mọi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò, trách nhiệm, trí tuệ để xây dựng đường lối, công việc chung của Đảng, từ đó đi đến quyết định tập trung.
Sự lãnh đạo đúng đắn, thành công của Đảng phụ thuộc rất lớn vào vai trò, trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí minh xác định: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu.”
Đại hội XIII của Đảng (1-2021) khẳng định, trong công cuộc đổi mới, Đảng coi nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong xây dựng Đảng đã lấy công tác cán bộ là then chốt. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Động viên, khuyến khích những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám vượt qua khó khăn, thách thức, dám đổi mới, sáng tạo. Với đội ngũ cán bộ như thế là sự bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, đương đầu vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Thực tế cho thấy, tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu trong lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, cần rất chú trọng việc tổ chức, thực hiện nhằm hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối của Đảng. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường công tác vận động quần chúng (dân vận), động viên, hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật. Có như vậy mới nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, quản lý.
Thứ tư, Đảng nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức
Cương lĩnh của Đảng đã nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
Như vậy có nghĩa là, Đảng phải tiên phong về lý luận, về trí tuệ, về đường lối chính trị và về hành động. Lãnh đạo là dẫn đường, Đảng luôn luôn đi đầu trong sự nghiệp cách mạng ở mọi thời kỳ, cán bộ, đảng viên đứng ở tuyến đầu của sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hy sinh, kể cả tính mạng vì lý tưởng cách mạng, vì nước vì dân. Quần chúng nhân dân luôn luôn nhìn vào hành động của cán bộ, đảng viên để noi theo. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Hồ Chí Minh coi phương châm đó là lời khen chân thành của nhân dân nhưng cũng là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Trong công cuộc đổi mới, Đảng nêu cao trách nhiệm nêu gương cán bộ, đảng viên, nêu thành quy định trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII và nhiều văn kiện quan trọng khác. Người có vai trò, chức vụ càng cao càng phải đề cao trách nhiệm nêu gương. Nêu gương trong thực hiện trách nhiệm được giao, nêu gương về sự phấn đấu hy sinh vì nước, vì dân, nêu gương về không ngừng học tập, nâng cao trình độ, nêu gương về đạo đức lối sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức cách mạng, là gốc của người cách mạng. “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hiện nay, phần đông cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, gắn với đạo đức, đề cao trách nhiệm, được nhân dân tin cậy. Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và có biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như Nghị quyết Trung ương khóa XI, khóa XII, khóa XIII đã nêu rõ. Một số cán bộ sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí, xa rời thực tế, xa cách nhân dân. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của Đảng và vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Bởi vậy, Đại hội XIII đã nhấn mạnh, phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Phải tăng cường giáo dục trong Đảng và xã hội những chuẩn mực đạo đức cách mạng và mỗi cán cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đó. Đảng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực như mong muốn và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cán bộ, đảng viên cần phải coi danh dự là điều thiêng liêng nhất biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”. Tấm gương về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có sức động viên, lan tỏa lớn lao, nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cầm quyền đầy bản lĩnh, độc lập, sáng tạo – một đảng vì dân – Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, viết tiếp những bản anh hùng ca thực hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
PGS,TS TRẦN THỊ VUI
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
https://dukccq.danang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc?dinhdanh=2984&cat=0